
Gừng được sử dụng rộng rãi trong dân gian để điều trị nhiều triệu chứng, bao gồm lạnh bụng, đầy hơi, ăn uống không tiêu, đau bụng tiêu chảy, chống nôn và chống say tàu xe. Nó cũng có thể được sử dụng để điều trị cảm cúm, làm ra mồ hôi, trị nhức đầu và họ mất tiếng.
Gừng sao vàng được sử dụng để chữa tay chân lạnh, nhức mỏi tê bại và tê thấp. Nó cũng có thể được sử dụng trong châm cứu và để đánh gió.
Gừng sống nhấm từng ít một chữa nôn mửa. Có thể sắc Gừng tươi để uống. Ngày dùng 4-8g. Có thể làm thuốc pha hoặc ngâm rượu Gừng, mỗi ngày dùng 2-5ml để chữa ngoại cảm, bụng trướng đầy, nôn mửa, họ.
Dùng Gừng phối hợp với Chanh quả, củ Sả, mỗi thứ 10g, thái nhỏ ngâm với 5g muối và xirô đơn (vừa đủ 100ml) trong 3 ngày, rồi dùng vải vắt kiệt lấy nước, đựng trong lọ kín.
Dùng uống trị ho, ngày 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa canh. Trẻ em dùng 1/2 liều của người lớn. Gừng khô sắc uống như Gừng tươi, dùng khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa.
Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã ghi bài thuốc chữa cảm hàn rét run, hay đau bụng lạnh dạ, ỉa xối ra nước hoặc đau bụng thổ tả, dùng Can khương và củ Riềng ấm, mỗi vị 15- 20g, sắc uống.
Gừng sao cho thật vàng cũng dùng chữa đau bụng lạnh, tay chân lạnh, nhức mỏi tê bại, tê thấp, đầy hơi. Gừng sao cho gần cháy cũng dùng như Gừng sao và còn dùng trị băng huyết. Nhân dân ta còn chế mứt Gừng và Gừng muối.
Gừng muối dùng tránh ho và chống lạnh trong mùa đông; nó lại có tác dụng tăng cường muối cho cơ thể, đỡ say nóng và đỡ khát nước trong mùa hè, mà còn chữa chứng đầy bụng, làm thông đường tiêu hóa, sát trùng trong trường hợp đau răng và sưng amygdal.
Chúng ta có nhiều kinh nghiệm dân gian trong việc sử dụng Gừng, từ những trường hợp đơn giản như nhai Gừng tươi nuốt nước chữa đau bụng, nôi mửa, oẹ… đến những trường hợp phức tạp như chữa tỳ thấp thũng trưởng, tay chân phù, ăn uống không tiêu, sợ lạnh, sợ nước.
Không nên dùng cho phụ nữ mang thai.
Bị chứng âm hư do nội nhiệt
Ho do âm hư
Tự ra mồ hôi trộm
Đại tiện ra máu
Nôn ói do nhiệt
Nôn ra máu kèm biểu hư có nhiệt
Đau bụng do hỏa nhiệt
Tương kỵ
Tránh dùng chung với hoàng cầm, hoàng liên, tần tiêu, dạ minh sa.
Tính vị: Vị cay, tính nhiệt.
Quy kinh: Vào kinh Tâm, Phế, Tỳ, Vị.
Trên thực nghiệm, gừng có tác dụng làm giãn mạch và tăng tỷ lệ protein toàn phần và gamma globulin trên động vật thí nghiệm, đồng thời, có khả năng ức chế hoạt tính của histamin và acetylcholin thể hiện trên sự giảm mức độ co thắt cơ trơn ruột cô lập. Gừng có tác dụng làm giảm cơn dị ứng của chuột lang và sau đó 3 tuần được đưa kháng nguyên vào đường hô hấp trong buồng khí dung để gây phản ứng phản vệ.
Cineol trong gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn. Bột rễ gừng có tác dụng trị bệnh mắt hột tốt hơn nhiều loại thuốc khác. Nó làm giác mạc bị biến đổi trở nên trong, làm giảm sự thẩm thấu dưới niêm mạc và tăng hoạt tính sống của mô mắt.
Cao cồn gừng có tác dụng kích thích các trung tâm vận mạch và hô hấp mèo gây mê, và kích thích tim. Trong gừng có yếu tố kháng histamin.
Để nơi khô ráo, kín, tránh ẩm, nóng làm mất tinh dầu thơm.
Gừng là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao 0.6 – 1m.
Thân rễ phát triển thành củ, phân nhánh xòe ra gần như trên cùng một mặt phẳng, màu vàng nhạt, mùi thơm.
Lá mọc so le, không cuống, có bẹ, hình mác dài 15 – 20cm, rộng chừng 2cm, mặt nhẵn bóng, gân giữa hơi trắng nhạt, và có mùi thơm.
Trục hoa xuất phát từ gốc, dài tới 20cm, rộng 2 – 3cm, mang cụm hoa hình vuông, lá bắc hình trứng, dài 2.5cm, mép lưng màu vàng, đài hoa dài chừng 1cm, có 3 răng ngắn, 3 cành hoa dài chừng 2cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím, nhị cũng tím. Qủa mọng.